Phế hậu Bát_Nhĩ_Tề_Cát_Đặc_phế_hậu

Giáng vị Tĩnh phi

Năm Thuận Trị thứ 10 (1653), ngày 24 tháng 8 (âm lịch), Thuận Trị Đế tập hợp hội đồng, tuyên bố Hoàng hậu Bác Nhĩ Tế Cẩm thị [Vô năng, cố đương phế; 無能,故當廢], mệnh tra điển cổ Phế hậu trong lịch sử. Các Đại học sĩ Phùng Thuyên (冯铨), Trần Danh Hạ (陈名夏) cật lực phản đối[7]. Không chịu khuất phục, hôm sau Hoàng đế trực tiếp đến xin Hiếu Trang Hoàng thái hậu cho phép giáng Hoàng hậu xuống tước Phi[8][9].

Ngày 26 tháng 8, Thuận Trị Đế dụ Lễ bộ, soạn thánh chỉ giáng vị Hoàng hậu Bác Nhĩ Tế Cẩm thị xuống làm Phi. Toàn bộ Lễ bộ quan viên dâng sớ phản đối, lấy lý do năm đó Hoàng hậu từng cáo Tế thiên, đảm nhận Chính vị, đột ngột phế truất hoàn toàn không phù hợp trình tự. Chuyện đến nước này, Thuận Trị Đế bèn triệu tập Nghị chính Vương đại thần, thảo luận việc phế bỏ Hoàng hậu. Viên ngoại lang Khổng Doãn Việt (孔允樾) dâng tấu bất bình, vì Hoàng hậu đã chính vị 3 năm, không phạm đại tội, dùng chữ [Vô năng] làm lý do sẽ khiến thiên hạ và hậu thế không phục[10]. Ngự sử Tông Đôn Nhất (宗敦一), Phan Triều Tuyển (潘朝選) và 14 người bọn họ yêu cầu Hoàng đế thu hồi ý chỉ phế truất Hoàng hậu. Thuận Trị Hoàng đế giận tím mặt, trách cứ bọn họ "suy đoán Thánh tâm", "mua danh chuộc tiếng" mà quyết định trừng trị toàn bộ[11].

Ngày 1 tháng 9, Nghị chính Vương đại thần thỉnh cầu Hoàng đế tiếp tục giữ Hoàng hậu Bác Nhĩ Tế Cẩm thị tại vị. Thuận Trị Đế kiên quyết không nghe, mệnh cho Nghị chính Vương đại thần [Phúc nghị][12]. Cuối cùng vào ngày 5 tháng 9 (tức ngày 25 tháng 10 dương lịch), Trịnh thân vương Tế Nhĩ Cáp Lãng đọc tuyên kết quả nghị sự cho Thuận Trị Đế, cuối cùng đã thông qua việc phế bỏ Hoàng hậu Bác Nhĩ Tế Cẩm thị, giáng làm Tĩnh phi (静妃), chuyển về Trắc cung[13].

Năm Thuận Trị thứ 11 (1654), tháng 2, Hoàng đế ra một đạo chỉ dụ:

  • [吏部议,凡满洲、蒙古、汉军受封命妇或有夫妻不谐,情愿离异者,应听其夫自便。有夫故再适者,应将本妇原得诰敕追夺。从之。].
  • Lại bộ nghị, phàm Mãn Châu, Mông Cổ, Hán Quân thụ phong mệnh phụ hoặc hữu phu thê bất hài, tình nguyện ly dị giả, ứng thính kỳ phu tự tiện. Hữu phu cố tái thích giả, ứng tương bổn phụ nguyên đắc cáo sắc truy đoạt. Tòng chi.

Ý của chỉ dụ này là mệnh phụ có cáo mệnh và phu quân nếu bất hòa, có thể ly hôn. Thê tử tái hôn sau khi phu quân chết, nếu có [Cáo mệnh] sẽ bị đoạt lại. Chỉ mấy tháng sau khi phế truất Tĩnh phi, Thuận Trị Đế liền ra một đạo chỉ dụ này, ý tứ rất rõ ràng.

Kết cục

Phế hậu may mắn không phải chịu số phận bị giam cầm trong lãnh cung như các phế hậu khác trong lịch sử, còn được phong Phi. Điều này cũng nhờ vào mối quan hệ giữa bà và Hiếu Trang Hoàng thái hậu. Cha bà là Trác Lễ Khắc Đồ thân vương Ngô Khắc Thiện, Đại Thân vương dòng đại tông của Khoa Nhĩ Thấm, chính trị đan xen, cũng là một nguyên nhân lớn khiến Thuận Trị Đế không dám làm gì hơn sau khi phế truất bà[8][9]. Từ đó về sau, Bác Nhĩ Tế Cẩm thị không còn được ghi chép trong lịch sử.

Căn cứ theo Yến đồ kỷ hành (燕途纪行) của Lân Bình đại quân Lý Yểu (李㴭; 이요), vào năm Thuận Trị thứ 13 (1656), tháng 10, cha của Phế hậu Tĩnh phi là Trác Lễ Khắc Đồ thân vương Ngô Khắc Thiện nhập kinh. Trong dịp ấy, Thuận Trị Đế đồng ý với cậu mình là cho Tĩnh phi trở về Khoa Nhĩ Thẩm[14]. Trong bài "Cổ ý lục thủ" (古意六首) của Ngô Vĩ Nghiệp (吴伟业), Tĩnh phi được ghi lại qua đời không lâu sau cái chết của Thuận Trị Đế[15]. Trong khi đó, sách sử nhà Triều Tiên ghi lại bà trở về Khoa Nhĩ Thấm, tái giá và sinh con[16][17].

Vào thời Gia Khánh, Hoàng đế từng ra chỉ mệnh Quân cơ xứ đến Thanh Đông lăng dò hỏi nha môn phụ trách coi giữ lăng, tìm hiểu xem Phế hậu Tĩnh phi sau khi mất táng ở nơi nào, khi nào phụng an, hiến tế như thế nào, sinh nhật và ngày kị ra sao.